Ảnh hưởng của mật độ ương đến sinh trưởng và tỷ lệ sống của ấu trùng ngao dầu (Meretrix meretrix Linnaeus, 1758) từ giai đoạn bơi tự do (D-veliger) đến giai đoạn sau biến thái (post-metamorphosis)
DOI:
https://doi.org/10.71254/e4eg4s46Từ khóa:
D-veliger, mật độ, Meretrix meretrix, ngao dầu, post - metamorphosis, sinh trưởng, tỷ lệ sốngTóm tắt
Nghiên cứu nhằm xác định ảnh hưởng mật độ đến sinh trưởng và tỷ lệ sống của ấu trùng ngao dầu (Meretrix meretrix) từ giai đoạn bơi tự do (D-veliger) đến giai đoạn sau biến thái (chuyển sang đời sống vùi đáy). Thí nghiệm được tiến hành với 4 mật độ ương khác nhau, lần lượt là: 10 ấu trùng/ml, 15 ấu trùng/ml, 20 ấu trùng/ml và 25 ấu trùng/ml, mỗi nghiệm thức được bố trí 3 lần lặp. Ấu trùng ngao được ương trong 12 bể nhựa 120 L (thể tích thí nghiệm 100 L). Thí nghiệm được tiến hành trong 7 ngày, vào tháng 6/2024, tại Trung tâm Nghiên cứu Khảo nghiệm và Dịch vụ vật nuôi, Viện Nông nghiệp tỉnh Thanh Hóa. Kết quả nghiên cứu cho thấy, ấu trùng ngao dầu ương ở mật độ 15 ấu trùng/ml đạt kích cỡ 193,7 ± 1,2 µm và tốc độ tăng trưởng đặc trưng đạt 4,7 ± 0,1%/ngày, cao hơn ở mật độ 20 và 25 ấu trùng/ml (p < 0,05), nhưng sai khác không có ý nghĩa so với ấu trùng ương ở mật độ 10 ấu trùng/ml (202,3 ± 3,5 µm và 5,3 ± 0,2%/ngày). Thời gian ấu trùng biến thái, chuyển xuống đáy tại ngày thứ 4 ở nghiệm thức mật độ 10 và 15 ấu trùng/ml, trong khi ở mật độ 20 ấu trùng/ml là ngày thứ 5 và 25 ấu trùng/ml là ngày thứ 6. Tỷ lệ sống của ấu trùng cao nhất ở nghiệm thức 10 ấu trùng/ml, đạt 80,7 ± 0,1%, sai khác có ý nghĩa so với ấu trùng ở nghiệm thức 20 ấu trùng/ml và 25 ấu trùng/ml (p < 0,05), nhưng sai khác không có ý nghĩa (p > 0,05) so với ấu trùng ương ở 15 ấu trùng/ml (79,7 ± 0,2%). Kết quả nghiên cứu cho thấy, mật độ ương 15 ấu trùng/ml là lựa chọn phù hợp nhất, cân bằng giữa hiệu quả sinh học và kinh tế trong ương ấu trùng ngao dầu từ giai đoạn bơi tự do đến giai đoạn sau biến thái.