Hoàn thiện thể chế, chính sách để triển khai dịch vụ các bon rừng
Trong thời gian qua, một số địa phương đã nhận được đề nghị của các tổ chức, cá nhân trong nước và quốc tế đến tìm hiểu và đề xuất triển khai dịch vụ hấp thụ và lưu giữ các bon rừng (dịch vụ các bon rừng), bao gồm việc đo đạc, báo cáo, thẩm định, phát hành và thương mại tín chỉ các bon rừng. Tuy nhiên, đây là một lĩnh vực mới, các Bộ, ngành đang xây dựng, hoàn thiện cơ sở pháp lý và các điều kiện thể chế, kỹ thuật và năng lực để triển khai thị trường các bon trong nước và tham gia thị trường các bon thế giới…
Quảng Bình là một trong 6 tỉnh vùng Bắc Trung bộ đã nhận tiền từ việc bán tín chỉ các bon, trong đó Vườn Quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng là chủ rừng được chi trả nhiều nhất. Ảnh: Uyên Thu
Trước thực tế trên, ngày 26/7/2024, Cục Lâm nghiệp đã ban hành văn bản số 1108/LN-KHCN&HTQT gửi Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn các tỉnh, thành phố thông tin về tình hình triển khai dịch vụ hấp thụ và lưu giữ các bon rừng.
Cụ thể, đề cập đến thực trạng những khó khăn, vướng mắc chung trong việc triển khai dịch vụ các bon rừng tại một số tỉnh Quảng Nam, Sơn La, Lào Cai, Thanh Hóa, chưa thực hiện do thiếu quy định pháp luật và các hướng dẫn chi tiết, Cục Lâm nghiệp nêu rõ, hiện nay các chính sách và quy định pháp lý tuy đã hình thành nhưng thiếu quy định, hướng dẫn chi tiết để có thể triển khai dịch vụ các bon rừng, bao gồm: Quyền sở hữu các bon rừng, quy định về trao đổi, chuyển nhượng các bon rừng, cơ chế quản lý, sử dụng nguồn thu từ dịch vụ các bon rừng. Hạn ngạch giảm phát thải đóng góp cho việc thực hiện mục tiêu đóng góp do các quốc gia tự nguyện (NDC) và tiềm năng tín chỉ các bon rừng có thể thương mại của từng địa phương chưa được xác định, phân bổ. Bên cạnh đó thông tin, nhận thức của nhiều bên liên quan đến dịch vụ các bon rừng còn nhiều hạn chế… Tiêu chuẩn các bon rừng và hệ thống đo đạc, báo cáo, thẩm định, cấp tín chỉ để áp dụng cho thị trường các bon trong nước chưa được xây dựng.
Tiếp đó, để chuẩn bị và sẵn sàng triển khai dịch vụ các bon rừng, Cục Lâm nghiệp lưu ý một số điểm đối với loại dịch vụ này.
Thứ nhất, dịch vụ hấp thụ và lưu giữ các bon rừng là vấn đề mới, hiện mới được thí điểm tại 6 tỉnh vùng Bắc Trung bộ, chưa có quy định, hướng dẫn cụ thể để triển khai, đang tiếp tục được nghiên cứu, hoàn thiện. Cục Lâm nghiệp cho biết, Thoả thuận chi trả giảm phát thải vùng Bắc Trung Bộ (ERPA), Việt Nam chuyển nhượng cho Ngân hàng Thế giới 10,3 triệu tấn CO2 (có thể tăng thêm tối đa 5 triệu tấn CO2), đơn giá là 5 USD/tấn CO2, tổng giá trị chi trả là 51,5 triệu USD, trong đó 95% lượng chuyển nhượng sẽ được tính vào NDC của Việt Nam. Để thực hiện ERPA này, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 107/2022/NĐ-CP ngày 28/12/2022 quy định về thí điểm chuyển nhượng kết quả giảm phát thải và quản lý tài chính ERPA.
Thứ hai, việc thương mại, trao đổi, bù trừ tín chỉ các bon rừng với các tổ chức, cá nhân trong nước và quốc tế phải tuân thủ quy định pháp luật và chỉ được thực hiện đối với lượng giảm phảt thải dôi dư sau khi đã hoàn thành trách nhiệm đóng góp do quốc gia tự quyết định (NDC) theo hạn ngạch được phân bổ.
Thứ ba, trong khi chờ đợi hướng dẫn chi tiết. Cục Lâm nghiệp yêu cầu các địa phương chủ động huy động và lồng ghép các nguồn lực hợp pháp để triển khai các biện pháp giảm phát thải/tăng hấp thụ trên diện tích rừng quản lý để triển khai Kế hoạch giảm phát thải khí nhà kính lĩnh vực lâm nghiệp tại Quyết định số 1693/KH-BNN-KHCN ngày 28/4/2023.
Trong thời gian tới, Bộ Nông nghiệp và PTNT sẽ triển khai nhiệm vụ đánh giá tiềm năng giảm phát thải và hấp thụ các bon từ rừng cấp quốc gia, vùng, địa phương đến năm 2030 và có tính đến năm 2050. Phân bổ hạn ngạch giảm phát thải từ rừng cho các vùng sinh thái, các địa phương hằng năm giai đoạn 2021 đến năm 2030 để thực hiện mục tiêu NDC.
Uyên Thu
-
2.
Thúc đẩy hợp tác nông nghiệp Việt Nam - Mông Cổ
-
3.
Gần 300 gian hàng tham dự Hội chợ triển lãm Nông nghiệp quốc tế lần thứ 24
-
4.
Công bố Quyết định bổ nhiệm Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và PTNT
-
5.
Không ngừng nâng cao chất lượng đào tạo, nghiên cứu khoa học gắn với phát triển ngành lâm nghiệp
-
6.
Cơ hội hợp tác trong nghiên cứu và giáo dục về thương mại carbon