Tuyển chọn và định tên chủng nấm có khả năng sinh tổng hợp enzyme cellulase và xylanase

Các tác giả

  • Nguyễn Thị Hồng Hà, Nguyễn Thị Hương Trà, Lê Thị Trang, Nguyễn Ngọc Huyền, Nguyễn Tuấn, Vũ Thu Diễm, Nguyễn Trọng Uyên, Lê Khánh Linh, Nguyễn Văn Hiếu

DOI:

https://doi.org/10.71254/bsxhv881

Từ khóa:

Trichoderma, cellulose, hemicellulose

Tóm tắt

Mục tiêu của nghiên cứu này là tuyển chọn chủng nấm được phân lập từ đất trồng dong riềng có khả năng phân giải cellulose và hemicellulose. Kết quả cho thấy, 36 chủng Trichoderma đã được phân lập và tuyển chọn được 3 chủng Trichoderma có khả năng phân giải cellulose và hemicellulose cao nhất là Trichoderma D5 có vòng phân giải cơ chất cellulose và xylan, tương ứng 3,02 cm và 3,43 cm; Trichoderma D19 là 2,65 cm và 2,88 cm; Trichoderma D25 là 2,86 cm và 2,61 cm. Cả 3 chủng Trichoderma đều có khả năng ức chế nấm gây bệnh Collectotrichum musae, Lasiodiplodia theobromaeThielaviopsis paradoxa với tỷ lệ từ 74,1 - 91,3%; 58,2 - 70,2% và 55,1 - 77,2%, theo thứ tự ở điều kiện in vitro. Ba chủng đã được định danh là: Trichoderma viride (T. viride D5), Trichoderma harzianum (T. harzianum D19), Trichoderma asperellum (T. asperellum D25) và được đăng kí trên GenBank với mã số tương ứng là: OR686312, OR690335, OR686311. Kết quả nghiên cứu cho thấy, tiềm năng phân giải cellulose và xylan của 3 chủng Trichoderma phân lập từ đất trồng dong riềng.

Đã Xuất bản

15-10-2024

Số

Chuyên mục

Articles